Bối cảnh nền kinh tế trước quyết định tăng lãi suất của FED
Các chính sách nới lỏng định lượng sau đại dịch COVID-2019, cùng với tác động tiêu cực từ các cuộc xung đột địa chính trị đã khiến lạm phát ở Mỹ và các nước châu Âu tăng cao liên tiếp, lập kỉ lục trong 40 năm qua. Tại Mỹ, lạm phát đã đạt kỉ lục 9,1% vào 6/2022. Để kiềm chế lạm phát, Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã ra quyết định nâng mức lãi suất mốc 10 lần liên tục, từ mức 0,25% vào 5/2022 lên mốc 5,5% vào 7/2023.
Đi ngược lại với xu hướng toàn cầu, tình hình kinh tế Việt Nam có nhiều dấu hiệu khả quan với quá trình phục hồi nhanh sau đại dịch. Các chính sách tài khoá hợp lý, sự gia tăng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, cùng với việc không phải chịu quá nhiều ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng năng lượng, lương thực toàn cầu giúp GDP quý đầu 2022 tăng trưởng mạnh. Tuy nhiên, nhiều lo ngại cho rằng các quyết định tăng lãi suất của FED sẽ ảnh hưởng đến nỗ lực phục hồi đà tăng trưởng của Việt Nam. Trên thực tế, tuy không quá nghiêm trọng, đã có những tác động tiêu cực lên nền kinh tế Việt Nam.
Ảnh hưởng của FED lên nền kinh tế Việt Nam
Với tầm ảnh hưởng của Mỹ lên nền kinh tế toàn cầu, những thay đổi trong chính sách tiền tệ và tài khoá của FED luôn có những tác động ngoại lai lên các quốc gia khác.
Theo Iacoviello & Navarro (2022), các quốc gia đang phát triển và mới nổi sẽ nằm trong vùng chịu ảnh hưởng mạnh từ các đợt thay đổi lãi suất của Mỹ. Nguyên do là các nền kinh tế này có độ mở thương mại và độ mở tài chính lớn, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào giao thương quốc tế, nguồn vốn được chuyển dịch dễ dàng, trong khi hệ thống tài chính chưa quá phát triển, rủi ro đầu tư cao, cùng với hệ quả tất yếu là ảnh hưởng lớn của thay đổi tỷ giá lên lạm phát trong nước. Từ những đặc điểm đó, khi Mỹ tăng lãi suất và tỷ giá đô la Mỹ so với đồng nội địa tăng cao, nguồn vốn nước ngoài vào các quốc gia này suy giảm trong khi giá trị khoản nợ nước ngoài gia tăng, nhập khẩu cũng trở nên khó khăn. Thêm vào đó, lãi suất tăng cao trong nỗ lực giải quyết cú sốc lạm phát và bối cảnh nền kinh tế kém khả quan sẽ làm suy giảm tổng cầu, ảnh hưởng trực tiếp đến các quốc gia phụ thuộc vào xuất khẩu.
Là một quốc gia cận biên với triển vọng trở thành nền kinh tế mới nổi, Việt Nam không tránh khỏi những tác động từ lộ trình tăng lãi suất của FED. Việt Nam thường nhạy cảm với các biến động quốc tế, do là một quốc gia có độ mở rất lớn với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu có giá trị gần gấp đôi GDP, trong đó Mỹ là thị trường quan trọng nhất. Tỷ giá đồng USD chạm ngưỡng đỉnh gần 24.900 VND sau những động thái tăng lãi suất liên tục của FED và chính sách đối ngược của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hiện tại đang dừng ở mức 24.400 VND vào cuối năm 2023, gây ra những tác động tiêu cực đến thị trường ngoại hối ở Việt Nam. Giá trị đồng USD tăng cao đã gây ra nhiều khó khăn cho các hoạt động nhập khẩu, trong khi xuất khẩu cũng chịu ảnh hưởng tiêu cực do các mặt hàng của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên, vật liệu nhập khẩu. Hệ quả kéo theo là sự dẫn truyền lớn của tỷ giá vào lạm phát, tăng chỉ số giá tiêu dùng năm 2023 lên mức 4,5% (so với 3,15% của 2022). Thị trường thương mại tăng trưởng chậm do các chính sách tài khoá thắt chặt của Mỹ và châu Âu, trong khi cuộc khủng hoảng lương thực, năng lượng và lạm phát chưa được giải quyết, gây ra những tác động tức thời tới nền kinh tế Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giảm từ 732,5 tỷ USD năm 2022, giảm còn 680 tỷ USD năm 2023, là nguyên nhân chính làm giảm tốc độ tăng trưởng nền kinh tế từ 8% xuống 5%).
Tuy nhiên, trong tình trạng suy thoái chung, nền kinh tế Việt Nam không chịu ảnh hưởng quá nặng nề từ chính sách của FED và vẫn là một điểm sáng hiếm hoi, biểu hiện nhãn tiền là tăng trưởng GDP ở mức khả quan 5%. Tỷ giá USD tăng liên tục, nhưng không gây ra nhiều ảnh hưởng tới dòng vốn chảy vào Việt Nam. Theo PGS., TS Đào Hoàng Tấn, dòng vốn rút khỏi Việt Nam trong giai đoạn trên là không nhiều, do dòng vốn gián tiếp đầu tư vào Việt Nam thông qua thị trường cổ phiếu là chưa nhiều, ngược lại, nguồn vốn nước ngoài chủ yếu đến từ các hiệp định thương mại đã được kí kết. Tổng nguồn vốn FDI đầu từ vào nước ta vẫn được duy trì ổn định, đến 11/2023 đạt 28,85 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kì năm trước. Khác với nhiều nước đang phát triển, Việt Nam không phải chịu sức ép quá lớn từ khoản nợ nước ngoài khi nợ công ở mức 35,7% GDP (2022), trong đó USD chỉ chiếm tỉ trọng 15%, hàm ý rằng chính phủ Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa để đưa ra các chính sách tài khoá nhằm thúc đẩy nền kinh tế trong nước.
Biến động của thị trường chứng khoán Việt Nam sau những quyết định của FED
Thị trường chứng khoán rất nhạy đối với các biến động và thường có xu hướng dịch chuyển trước các chỉ số vĩ mô. VN-Index đạt đỉnh lịch sử 1.500,57 điểm vào đầu năm 2022, giảm mạnh sau thông báo về lộ trình tăng lãi suất của FED rồi chạm đáy ở ngưỡng chỉ 900 điểm vào tháng 11/2022. Sự xuống dốc của thị trường chứng khoán do tâm lý bi quan của nhà đầu tư trước bức tranh ảm đạm của kinh tế thế giới và lo ngại về các tác động ngoại lai đến thị trường trong nước, báo hiệu trước cho một năm 2023 trầm xuống của nền kinh tế Việt Nam.
Trong bối cảnh ảm đạm nói chung của thị trường, vẫn có những doanh nghiệp duy trì được tốc độ tăng trưởng tốt. Trước các chính sách thắt chặt của các nền kinh tế phát triển, nhà đầu tư tại các thị trường mới nổi có xu hướng chuyển dịch danh mục đầu tư sang các cổ phiếu có “chất lượng”, có vốn hoá lớn, cùng với đó là các công ty xuất khẩu không phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu ngoại nhập. Trên thực tế thị trường chứng khoán Việt Nam 2022, các mã vốn hoá lớn vẫn giữ giá tốt, các mã thuộc nhóm ngành có khả năng xuất khẩu như dầu khí, hàng hoá công nghiệp, cảng biển, thuỷ sản tăng trưởng tốt.
Sau nửa đầu năm 2023 giao dịch trầm lắng, thị trường chứng khoán có dấu hiệu phục hồi vào tháng 9, VN-Index ghi nhận mức tăng 24% so với đầu năm, đạt hơn 1.255 điểm. Động lực là các chính sách tiền tệ được nới lỏng, các chính sách tháo gỡ khó khăn của chính phủ cùng nguồn vốn FDI vẫn đổ vào liên tục. Tuy nhiên, sau khi tỷ giá USD tăng mạnh trở lại, nhà nước có động thái hút tiền để bình ổn tỷ giá trong 2 tháng sau đó, khiến tâm lý nhà đầu tư bị ảnh hưởng, kéo theo sự suy giảm 200 điểm của VN-Index. Đến cuối năm khi nhà nước ngừng hút tiền, thanh khoản ở các ngân hàng ổn định trở lại, VN-Index bắt đầu phục hồi trở lại. Các dấu hiệu khởi sắc của thị trường chứng khoán trong năm 2023 là tín hiệu tốt, dự báo sự hồi phục của nền kinh tế vào năm 2024. Các mã cổ phiếu tăng trưởng dương tiếp tục thuộc các nhóm ngành xuất khẩu bao gồm thép, dầu khí, công nghệ, bên cạnh đó là sự phục hồi của chứng khoán, logistic, xây dựng.
Viễn cảnh năm 2024
Sau các chính sách mạnh tay của FED, lạm phát tại Mỹ đã giảm mạnh về mức 3,2% (2023) nhưng vẫn còn cao hơn so với mức mục tiêu 2%. Do đó, FED vẫn sẽ duy trì lãi suất cao và dự báo sẽ chỉ giảm nhẹ xuống mức 4,6% vào cuối năm 2024, tiếp tục gây áp lực lên tỉ giá hối đoái giữa USD và VND. Tuy vậy, cán cân thương mại nếu duy trì mức thặng dư lớn như năm 2023 sẽ giảm phần nào sức ép lên tỷ giá. Ngân hàng nhà nước vẫn chưa có tín hiệu tăng lãi suất huy động cho thấy sự lạc quan của chính phủ vào khả năng trụ vững của nền kinh tế trước những áp lực từ FED và sự bình ổn của tỷ giá trong năm tới.
Tuy tình hình thế giới được dự báo là sẽ còn diễn biến phức tạp, lạm phát toàn cầu đã được kiểm soát phần nào, các ngân hàng trung ương trên thế giới dự kiến sẽ sớm thực hiện các chính sách đảo chiều để thúc đẩy nền kinh tế. Xét về tình hình trong nước, với nền tảng sẵn có từ năm 2023, các chỉ số vĩ mô bình ổn trở lại, doanh nghiệp có triển vọng phát triển, kinh tế Việt Nam trong năm tới nhận được nhiều kì vọng với mức tăng trưởng dự báo là 6% - 7%.
Nhiều nhận định lạc quan cũng được đưa ra về thị trường chứng khoán năm 2024. Với tình hình kinh tế được dự báo là có dấu hiệu khởi sắc, chứng khoán năm tới được dự báo có thể đạt ngưỡng 1.400-1.450 điểm, một sự bứt phá lớn xét trên nền kết quả không quá cao của năm cũ 2023.
Tham gia đầu tư cùng VPS để nhận được sự hỗ trợ tận tâm từ các chuyên gia hàng đầu ngay hôm nay:
|
(*) Khuyến cáo: Báo cáo này chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư tham khảo. Quan điểm, dự báo và những ước tính trong báo cáo này chỉ thể hiện ý kiến của tác giả tại thời điểm phát hành và có thể thay đổi mà không cần thông báo trước. Nhà đầu tư nên có nhận định độc lập về thông tin trong báo cáo này.