Nhờ các sản phẩm được tạo ra từ nghiệp vụ chứng khoán hóa mà trong vòng 30 năm trở lại đây, giá trị, khối lượng các loại chứng khoán được phát hành và giao dịch trên các thị trường vốn toàn cầu có sự tăng trưởng mạnh.
Lịch sử ra đời
Nghiệp vụ chứng khoán hóa (Securisation) có lịch sử phát triển từ năm 1977 khi ngân hàng Mỹ (Bank of America) tiến hành giao dịch chứng khoán hóa lần đầu tiên, với việc phát hành chứng khoán nợ có định mức tín nhiệm AAA có đảm bảo bằng các khoản vay thế chấp mua nhà. Tuy nhiên, giao dịch này không thành công do thời điểm đó chỉ có 15 tiểu bang của Mỹ công nhận đây là một sản phẩm đầu tư hợp pháp. Cơ quan hưu trí của New York quy định chỉ đầu tư vào chứng chỉ nợ nếu từng khoản vay thế chấp mua nhà dùng cho việc đóng gói chứng khoán hóa có giá trị trên 1 triệu USD.
Chỉ đến đầu những năm 1980, khi Hiệp hội cho vay thế chấp mua nhà Quốc gia (Government National Mortgage Association) và Tập đoàn cho vay thế chấp mua nhà Liên bang (Federal Home Loan Mortgage Corporation, gọi tắt là Freddie Mac) là hai cơ quan thuộc chính phủ Mỹ tiến hành chứng khoán hóa các khoản cho vay thế chấp mua nhà của mình thì chứng khoán hóa mới mang lại thành công. Hai cơ quan này sử dụng uy tín và tư cách pháp nhân của mình để vượt qua các rào cản pháp lý mà các doanh nghiệp bình thường không thể làm được. Sản phẩm chứng khoán hóa thông qua 2 tổ chức này có tên gọi “Mortgage Pass Through – MPT”.
Một vấn đề phát sinh lúc đó là luật pháp chỉ cho phép phát hành các chứng khoán nợ với thời hạn 30 năm. Trong thực tế tính thanh khoản của loại chứng khoán này rất thấp vì các nhà đầu tư không mặn mà với loại chứng khoán dài hạn này. Hơn nữa việc định giá chứng khoán dài hạn là một việc khó khăn, rủi ro phát sinh đó là việc khách vay mua nhà thanh toán sớm các khoản vay dùng làm tài sản chứng khoán hóa. Do đó, hai tổ chức này đã đưa ra mô hình định giá trên cơ sở 12 năm (giả định tất cả các khoản cho vay thế chấp mua nhà được khách hàng trả trước từ 13 năm) mặc dù chứng khoán có thời hạn 30 năm. Giải pháp này được các ngân hàng đầu tư áp dụng như một thước đo cơ bản của thị trường.
Chứng khoán hóa bắt đầu phát triển từ đó và ngày càng trở nên tinh vi, phức tạp. Các tài sản dùng để chứng khoán hóa đã vượt ra khỏi các khoản cho vay thế chấp mua nhà và bao gồm tất cả tài sản tài chính có rủi ro tín dụng.
Ngày nay, chứng khoán hóa đã lan rộng sang các thị trường phát triển khác, trở thành một phương thức phát hành chứng khoán rất thông dụng ở Mỹ và châu Âu. Tại châu Á, chứng khoán hóa đã trở nên phổ biến tại Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan và một số quốc gia khác. Trung Quốc bắt đầu thực hiện nghiệp vụ chứng khoán hóa từ năm 2005 với việc Ngân hàng xây dựng Trung Quốc (CCB) đưa ra danh mục cho vay thế chấp mua nhà trị giá 3 tỷ nhân dân tệ.
Tại Việt Nam, thị trường tài chính mới ở giai đoạn sơ khai do đó chưa có nghiệp vụ chứng khoán hóa. Tuy nhiên, thị trường cho vay thế chấp mua nhà và tín dụng tiêu dùng đã phát triển mạnh từ năm 2007, cung cấp cho thị trường những danh mục tài sản tiềm năng cho nghiệp vụ chứng khoán hóa trong tương lai gần. Chứng khoán hóa là một nghiệp vụ thuộc dòng sản phẩm có thu nhập cố định của ngân hàng đầu tư do nó liên quan đến việc phát hành các chứng khoán nợ.
Chứng khoán hóa là gì?
Bản chất chứng khoán hóa là quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng các tài sản có sẵn trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho việc phát hành các loại chứng khoán nợ. Thay vì cách làm truyền thống là mang các tài sản này ra ngân hàng làm thế chấp để vay tiền thì doanh nghiệp sử dụng chúng làm cơ sở đảm bảo phát hành các chứng khoán nợ cho các nhà đầu tư. Như vậy, thay vì phải đi vay ngân hàng với một lãi suất cao và thường có kỳ hạn ngắn thì việc chứng khoán hóa tài sản tạo một kênh huy động vốn dài hạn với lãi suất hấp dẫn hơn nhiều thông qua việc chuyển rủi ro trực tiếp cho các nhà đầu tư.
Nói cách khác, chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính sẵn có. Do đó, các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro (tín dụng, thanh toán sớm) đối với danh mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng khoán hóa.
Các tài sản tài chính có thể dùng để chứng khoán rất đa dạng bao gồm các khoản cho vay thế chấp mua nhà, các khoản cho vay thương mại, các khoản phải thu thương mại, danh mục các khoản cho vay thẻ tín dụng, danh mục nợ xấu (Non Performing Loan – NPL), các trái phiếu dạng đầu cơ (High-yield Bond) hay các khoản cho vay bất động sản thương mại. Tương ứng với mỗi loại tài sản đảm bảo này dùng làm cơ sở chứng khoán, các chứng khoán nợ phát hành sẽ có những tên gọi khác nhau.
Dễ dàng tạo lập các chiến lược đầu tư hiệu quả với các thông tin, tin tức diễn biến thị trường, khuyến nghị đầu tư, báo cáo phân tích được cập nhật liên tục tại VPS: 👉 Mở tài khoản chứng khoán với kho số đẹp: https://openaccount.vps.com.vn/ 👉 Tải và truy cập VPS SmartOne - Ứng dụng đầu tư chứng khoán hàng đầu tại Việt Nam: https://bit.ly/VPSSmartOne |